ĐHQGHN - Dấu ấn trong tôi 17:21:36 Ngày 20/04/2024 GMT+7
Trường đại học phải làm nòng cốt trong cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu
Tìm hiểu, ứng phó và thích nghi với biến đổi khí hậu là chuỗi hành động dựa trên các hiểu biết của con người về tác động của biến đổi khí hậu. Để có được những hiểu biết này phải nghiên cứu và biến các kết quả nghiên cứu thành kiến thức. Nơi để làm những công việc này thường là các trường đại học...

Xóa sổ các mục tiêu...

Mực nước biển dâng cao 1 m, Việt Nam sẽ mất đi 12% diện tích đất màu mỡ, khoảng 40 nghìn km2 diện tích vùng đất thấp bị ngập lụt, thiệt hại có thể lên đến 17 tỷ USD. Trong trường hợp mực nước biển dâng cao 5m, khoảng 35% dân số Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Trong 50 năm qua, mực nước biển trung bình ở Việt Nam đã dâng cao 20 cm. Ðây chỉ là một trong hàng loạt những hậu quả khởi đầu của biến đổi khí hậu mà chúng ta phải gánh chịu. Các chuyên gia WB dự báo, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do nước biển dâng.

Những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan bắt đầu gia tăng, ngập lụt và hạn hán xảy ra bất thường không theo quy luật. Bão và lụt lội là những thảm họa thiên tai nguy hiểm nhất đối với các khu vực ven biển Việt Nam. Trung bình, một năm Việt Nam phải hứng chịu 6 cơn bão, năm nhiều nhất lên đến12 cơn bão. Cơn bão Xangsane đổ bộ vào miền Trung năm 2006 đã làm cho 300.000 người mất nhà cửa.

Năm 2008, lượng mưa lớn và ngập lụt bất thường đã xảy ra, không chỉ người dân các tỉnh vốn xưa nay phải “quen” sống chung với lũ mà ngay tại Hà Nội cũng đã phải hứng chịu trận lụt lịch sử. Trong khi người dân Bắc Bộ đang phải chống chọi với lụt lội thì những nguy cơ hạn hán đe dọa mùa màng, cháy rừng lại diễn ra một cách thường xuyên hơn ở Tây Nguyên và Nam Bộ.

Biến đổi khí hậu đang trở thành một mối đe dọa đối với an ninh lương thực, khi Việt Nam đang là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới (sau Thái Lan) với khoảng 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Những năm qua, trong bối cảnh của ấm lên toàn cầu, nhiệt độ trung bình của Việt Nam đã tăng lên 0,7oC trong vòng 50 năm qua. Các phân tích số liệu thời tiết và sản lượng gạo của IRRI trong khoảng thời gian 1979 – 2003 cho thấy, nhiệt độ tối đa hàng năm tăng 0,25oC và tối thiểu tăng 1,13oC. Sản lượng gạo giảm 10% khi nhiệt độ tối thiểu hàng năm tăng 1oC. Bên cạnh đó, hệ thống lương thực đang bị tổn thương do môi trường biến đổi, đặc biệt là do quá trình suy thoái chất lượng đất và nước.

Biến đổi khí hậu đã cản trở việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, cướp đi công sức lao động, tài sản của từng công dân, mỗi quốc gia và cả nhân loại. Hội nghị thượng đỉnh lương thực thế giới đã đưa ra mục tiêu, đến năm 2015, giảm nghèo đói xuống còn 50%. Mục tiêu này khó đạt được khi thiên tai bão lũ và những tổn thất của con người tăng lên, quá trình nghèo đói tiếp tục, chất lượng cuộc sống giảm sút. Khi năng lực tài chính không còn thì mục tiêu thực hiện công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo khó lòng thực hiện được. Những nạn nhân đầu tiên của biến đổi khí hậu, không ai khác, chính là phụ nữ và trẻ em. Khác với nam giới, hai đối tượng này dễ bị tổn thương do nhu cầu về nước sạch, sức khỏe, trách nhiệm gia đình, kỹ năng sống và học vấn. Và do vậy, chỉ số phát triển con người bị tước đoạt.

Mặt khác, một vấn nạn đang làm bận tâm các nhà quản lý, nhà khoa học và cả người dân chính là việc sử dụng và khai thác bất hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cùng với những tác động của biến đổi khí hậu, sự tàn phá những khu rừng nguyên sinh, những hoạt động công nghiệp hủy hoại môi trường đã khiến hàng loạt các hệ sinh thái bị tổn thương nghiêm trọng, trong đó, giới khoa học đã ghi nhận sự biến đổi nhanh chóng theo hướng tiêu cực các quần thể sinh vật và hệ sinh thái với mức độ tuyệt chủng hàng nghìn loài trong một năm. Nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam đã suy giảm với tốc độ đáng báo động chỉ trong vài năm gần đây.

Tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế - xã hội là không nhỏ: làm suy giảm quỹ đất, tăng nguy cơ ngập lụt và thiệt hại về người, phá hủy các công trình bảo vệ bờ và cơ sở hạ tầng ven bờ, tăng nguy cơ phát sinh dịch bệnh, phá hủy các tài nguyên và giá trị văn hóa phi vật thể… Những tai biến về địa chất cũng tăng lên do biến đối khí hậu, đặc biệt khi Việt Nam là quốc gia rất nhạy cảm với những thảm họa thiên tai. Các hoạt động địa chất diễn ra khá mạnh, phức tạp ở miền Bắc và miền Trung, nhất là ở những sông lớn như sông Mã, sông Ðà, sông Hồng, sông Lô…

Vai trò của trường đại học

Biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức hàng đầu của các chính phủ. Nhận thức được tầm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã sớm tham gia vào việc thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh xúc tiến các hoạt động nghiên cứu, chúng ta đã đưa ra chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. Sau khi Cơ chế Phát triển sạch (CDM) của Nghị định thư Kyoto có hiệu lực, việc triển khai thị trường mua bán hạn ngạch phát thải cácbon tại Việt Nam đã được nhiều tổ chức, doanh nghiệp hưởng ứng. Các Chỉ thị, Quyết định của Chính phủ đã tạo ra các hành lang pháp lý cho hoạt động CDM ở Việt Nam.

Nhờ CDM, các doanh nghiệp có cơ hội được đầu tư, nâng cấp công nghệ mới thân thiện môi trường, giảm thiểu việc tiêu thụ năng lượng nhưng vẫn đảm bảo năng suất, chất lượng sản phẩm và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Các dự án CDM đang mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam và đặc biệt, Việt Nam đã được nhận các chứng chỉ phát thải và có thể bán lại cho các nước phát triển. Việc phát triển các giao dịch giảm phát thải (CER) và phát triển CDM trong ngành công nghiệp toàn quốc đã góp phần tích cực, chung tay cùng thế giới trong cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu. Cùng với việc tham gia các cam kết quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu để hạn chế những tác động của biến đổi khí hậu được triển khai như nghiên cứu bảo tồn và phát triển rừng ngập mặn ven biển, xây dựng các hệ thống cảnh báo thiên tai, hệ thống đê kè…

Nhưng có lẽ, giải pháp hiệu quả hơn cả là giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của biến đổi khí hậu trong đời sống, trong đó có nâng cao năng lực của cộng đồng trong phòng chống thiên tai, biến đổi khí hậu và giảm bớt mức độ tổn thương của những cộng đồng nghèo. Thực tế hiện nay, người dân ở những khu vực được đánh giá là chịu tác động nặng nề nhất thì khái niệm về biến đổi khí hậu còn rất mơ hồ. Các nhà khoa học, nhà quản lý cũng cần phải hiểu đúng và đủ để hoạch định những chính sách và xây dựng những giải pháp thích ứng và đối phó.

Việc xây chương trình giáo dục cần phải căn cứ vào những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, kết hợp với các nhà giáo dục để biên soạn các tài liệu, hướng dẫn có nội dung ngắn gọn, dễ hiểu cho từng đối tượng, từng nhóm người, vùng miền chịu tác động của biến đổi khí hậu. Việc đưa, lồng ghép vào các chương trình giảng dạy chính thức và tổ chức các khóa học, tập huấn được xem là giải pháp hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức của học sinh, sinh viên. Ðây là những giải pháp tiết kiệm nhất, bền vững nhất, lâu dài nhất và phù hợp nhất cho Việt Nam.

Thách thức của biến đổi khí hậu có thể trở thành cơ hội đối với Việt Nam nếu chúng ta biết cách thực hiện, và các trường đại học là thành phần không thể thiếu trong các hoạt động và hành động của quốc gia nhằm ứng phó với những tác động của biến đổi khí hậu.

Chúng ta có thể xây dựng các đại học bền vững kiểu mẫu, sử dụng tối đa năng lượng tái tạo, tối ưu hóa kết cấu, giao thông… để hạn chế thấp nhất sử dụng năng lượng hóa thạch. Các trường đại học sẽ làm nòng cốt trong việc nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động và đề xuất các giải pháp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, thông qua việc xây dựng các chương trình nghiên cứu liên ngành và xúc tiến các chương trình đào tạo sau đại học, tập huấn nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu với sự tham gia của các chuyên gia cao cấp để định hướng và làm nòng cột cho việc dự báo.

 GS.TS Mai Trọng Nhuận - Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 219, 2009
   In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
   Xem tin bài theo thời gian :
Bản tin ĐHQGHN số 387 | PDF
TRÊN WEBSITE KHÁC