Đổi mới Giáo dục & Đào tạo
Trang chủ   >  ĐÀO TẠO  >   Đổi mới Giáo dục & Đào tạo  >  
ĐHQGHN TIÊN PHONG TRONG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập năm 1993 trên cơ sở Đại học Tổng hợp Hà Nội, tiền thân là Đại học Đông dương (1906).

Sứ mệnh của Đại học Quốc gia Hà Nội được xác định là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học-công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, trình độ tiến tiến, đồng thời có quyền tự chủ cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học-công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy, là đầu tàu đổi mới, nòng cột trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.

Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 16/2001/NĐ-CP ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia (ĐHQG). Đây là văn bản pháp lý hết sức quan trọng khẳng định vị thế, quy mô và tầm vóc của Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam với tư cách cơ quan trực thuộc Thủ tướng Chính phủ.

Thuận lợi lớn nhất của ĐHQGHN là trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, có thế mạnh hàng đầu về nghiên cứu cơ bản, đồng thời có quyền tự chủ cao trong mọi hoạt động. Khác với các trường đại học khác trong hệ thống giáo dục, Giám đốc ĐHQGHN và ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh báo cáo trực tiếp Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của nhà trường.

Đặc biệt là Giám đốc 2 ĐHQG ra quyết định phê duyệt và ban hành chương trình đào tạo, phê duyệt các hoạt động hợp tác quốc tế. Đặc biệt từ năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật giáo dục đại học, trong đó địa vị pháp lý của ĐHQGHN được ghi nhận và khẳng định. Điều này đánh dấu một sự kiện, một bước phát triển mới trong lịch sử phát triển ĐHQGHN.

Hiện nay, ĐHQGHN là cơ quan giáo dục lớn với gần 30 đầu mối, trong đó có 6 trường đại học thành viên, 4 viện nghiên cứu, 2 khoa trực thuộc, 3 trung tâm đào tạo với hơn 3000 cán bộ công chức, viên chức, trong đó có 1700 cán bộ giảng dạy, trong số đó 45% có học vị tiến sĩ với 42 giáo sư, 284 phó giáo sư, 827 tiến sĩ (trong đó có 21 tiến sĩ khoa học).

ĐHQGHN có 15 nhà khoa học được giải thưởng Hồ Chí Minh, 10 nhà khoa học được giải thưởng Nhà nước. Có thể nói ĐHQGHN là cơ sở đào tạo tập trung nhiều cán bộ khoa học đầu ngành nhất của cả nước, là tinh hoa của trí tuệ Việt Nam.  Đây chính là thế mạnh lớn nhất của ĐHQGHN, trên cơ sở tiềm lực đó, ĐHQGHN có điều kiện và tiềm lực để đào tạo trình độ cao, chất lượng cao.

Trong quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển qua các thời kỳ, ĐHQGHN luôn có truyền thống gắn kết nhà trường với các viện nghiên cứu và doanh nghiệp, phối hợp tham gia giải quyết các nhiệm vụ KHCN lớn, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, trong vòng khoảng 5-7 năm trở lại đây, cùng với sự hội nhập và toàn cầu hóa mạnh mẽ, cũng như vai trò và tác động to lớn của các trường đại học với việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học công nghệ hàng đầu cho xã hội, là động lực thúc đẩy ĐHQGHN quan tâm đặc biệt đến việc đổi mới công tác đào tạo theo hướng chất lượng cao, trình độ cao, gắn kết chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu xã hội và hướng tới trình độ và các chuẩn quốc tế.

Từ 2006 đến nay là giai đoạn ĐHQGHN thực hiện nhiều chủ trương lớn mang tầm chiến lược: triển khai tích cực các chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình cử nhân tài năng, chất lượng cao, đồng thời xây dựng và triển khai thực hiện Đề án phát triển một số ngành đào tạo ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ đạt trình độ quốc tế (trước đây gọi là Đề án 16 + 23, nay gọi là nhiệm vụ chiến lược (NVCL).

Năm 2006, khi bắt tay vào xây dựng Kế hoạch phát triển 5 năm 2006-2010, ĐHQGHN mới có khoảng 200 chương trình đào tạo, chỉ từ 2006 đến nay, sau gần 7 năm phát triển, đến nay, ĐHQGHN đã có số lượng 339 chương trình đào tạo các loại (ở cả 2 bậc đại học và sau đại học). Trong đó có nhiều ngành và chuyên ngành mới, được thí điểm chỉ có đào tạo ở riêng trong ĐHQGHN, hoặc được tiên phong triển khai đào tạo đầu tiên trong cả nước ở như: Thạc sĩ đảm bảo chất lượng; thạc sĩ tư tưởng Hồ Chí Minh; thạc sĩ về biến đổi khí hậu; thạc sĩ và tiến sĩ về công nghệ nano; chuyên ngành Công nghệ vũ trụ trong ngành Cơ học kỹ thuật, ...

Có thể nói quy mô phát triển các chương trình đào tạo của ĐHQGHN trong những năm qua đã phát triển vượt bậc và đúng hướng, thể hiện sự nhạy bén với các ngành/chuyên ngành khoa học mới của ĐHQGHN.

Bên cạnh phát triển các chương trình đào tạo, ĐHQGHN tiếp tục phát triển và hoàn thiện, củng cố lên một tầm cao mới mô hình của một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao. Cụ thể là 2 trường đại học thành viên mới được thành lập là Trường Đại học Kinh tế trên cơ sở nâng cấp và phát triển từ Khoa Kinh tế trực thuộc ĐHQGHN trước đây và Trường Đại học Giáo dục trên cơ sở Khoa sư phạm. Đồng thời thêm 2 viện nghiên cứu mới cũng được thành lập, đó là Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, trên cơ sở phát triển và nâng cấp từ Trung tâm Công nghệ sinh học trực thuộc ĐHQGHN và Viện ĐBCL trên cơ sở nâng cấp Trung tâm ĐBCL.

Như vậy với cơ cấu hiện nay, ĐHQGHN có 6 trường đại học thành viên, 3 viện nghiên cứu do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (Viện Công nghệ Thông tin, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học) và 1 Viện do Giám đốc  ĐHQGHN ký quyết định thành lập (Viện ĐBCL), 5 khoa trực thuộc ĐHQGHN (Khoa Luật, Khoa Quốc tế, Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Sau đại học, Khoa Y dược) và gần 20 trung tâm nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao ở các cấp khác nhau. Sự phát triển về quy mô đã góp phần hoàn thiện cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực, tạo điều kiện khả thi và cơ hội để ĐHQGHN mở những ngành học mới, những chương trình đạo tạo có tính liên ngành cao.

Đến tháng 12/2012, quy mô đào tạo của ĐHQGHN là: 45.264 sinh viên, trong đó có  1149 NCS và  10.694 thạc sĩ. Có thể đánh giá quy mô đào tạo đã phản ánh đúng mô hình đại học nghiên cứu tiên tiến của ĐHQGHN.

Một thành tích nổi bật của ĐHQGHN trong những năm qua là tiếp cận theo các chuẩn mực quốc tế. ĐHQGHN đã đi tiên phong trong công tác kiểm định chất lượng. Các đơn vị đã tự đánh giá kiểm định từ những năm 2007. 7 chương trình của ĐHQGHN đã kiểm định theo chuẩn AUN. Và lần đầu tiên theo xếp hạng QS, ĐHQGHN lọt vào top 700 các trường địa học. Theo Quacquarelli Symonds Ltd. (QS), năm 2012, Đại học Quốc gia Hà Nội là trường duy nhất của Việt Nam lọt vào danh sách 700 trường đại học hàng đầu thế giới. Đứng đầu là Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) của Mỹ ( http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/700-Dai-hoc-hang-dau-the-gioi-Viet-Nam-chi-co-mot-truong/226957.gd). Cũng trong năm 2011-2012, ĐHQGHN đã tiếp cận xây dựng sửa đổi chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra và theo hướng tiếp cận CDIO trong đào tạo.

Bên cạnh đó, ĐHQGHN cũng đã luôn cập nhật  và ban hành kịp thời các văn bản liên quan đến đào tạo đại học và sau đại học:

Về đại học có các văn bản cơ bản sau: Quy chế Đào tạo đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội  (2004, sửa đổi 2010, 2013); Quy định về đào tạo cử nhân tài năng, chất lượng cao ở Đại học Quốc gia Hà Nội (2006; sửa đổi, bổ sung 2009); Quy định tạm thời đào tạo sinh viên năm thứ nhất thuộc chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế tại ĐHQGHN (2011); Quy định xây dựng và sử dụng mã môn học (2007); Hướng dẫn xây dựng và hoàn thiện chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra ở ĐHQGHN (2010). Hướng dẫn về việc xét tuyển người nước ngoài vào học tại Đại học Quốc gia Hà Nội (2003); Quy định về văn bằng, chứng chỉ của Đại học Quốc gia Hà Nội (2008).

Về sau đại học có: Quy chế Đào tạo sau đại học ở Đại học Quốc gia Hà Nội (2007, 2011; sửa đổi bổ sung 2012); Quy định tạm thời về mở chuyên ngành và sửa đổi khung chương trình đào tạo sau đại học (2008); Hướng dẫn tổ chức đánh giá luận án tiến sĩ ở ĐHQGHN (2003); Hướng dẫn tổ chức đánh giá chương trình đào tạo sau đại học các chuyên ngành đào tạo thí điểm (2007); Điều kiện chuyển tiếp sinh (2006). Hướng dẫn chuyển đổi các chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra (2012).

Từ năm 2006 đến nay, công tác chuyển đổi từ phương thức đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ đã được triển khai thận trọng, từng bước và có thể nói là khá thành công ở ĐHQGHN.

Đánh giá chung: Với vai trò và vị thế của ĐHQGHN trong hệ thống giáo dục Việt Nam, không phải bây giờ, mà trong quá trình hình thành và phát triển,  ĐHQGHN luôn tiên phong trong đổi mối và sáng tạo. Công tác đào tạo của ĐHQGHN trong những năm qua đã có những thành công, thu được nhiều kết quả và thành tích tốt, đáng tự hào. Hệ thống các chương trình đào tạo được mở rộng và phát triển quy mô đột phá ở cả bậc đại học và sau đại học; phương thức đào tạo theo tín chỉ được chuyển đổi thành công; các phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá tiên tiến được triển khai áp dụng; bên cạnh kiến thức đã quan tâm chú trọng đào tạo kỹ năng, tầm nhìn cho người học; hệ thống văn bản pháp quy được cập nhật khá hoàn chỉnh.

Và điều quan trọng nhất là chất lượng đào tạo được đảm bảo, thể hiện và minh chứng bằng các sản phẩm đào tạo: sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh tốt nghiệp ĐHQGHN được đào tạo bài bản, có chất lượng và phát huy tốt trong các môi trường làm việc, được các cơ sở sử dụng trong và ngoài nước ghi nhận và đánh giá cao.

Nhiều sinh viên tốt nghiệp ĐHQGHN đã nhận được học bổng sau đại học ở các trường đại học, các viện nghiên cứu có danh tiếng của nước ngoài, hoặc tìm được làm việc tại các công ty nước ngoài. Thậm chí đã có sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học đã đăng được bài báo khoa học có chất lượng đăng trên các tạp chí ISI. Bên cạnh hệ chuẩn, đã có những sản phẩm đặc sắc (hệ tài năng, tiên tiến, NVCL). ĐHQGHN trong những năm qua đã không ngừng đổi mới, tiếp cận trình độ và các chuẩn mực quốc tế. Thông qua chất lượng đào tạo, ĐHQGHN đã khẳng định và thể hiện được thương hiệu và những giá trị cốt lõi (cơ sở đào tạo đầu ngành, chất lượng cao, trình độ cao). Đây chính là thành công hết sức tự hào và đáng ghi nhận của công tác đào tạo trong những năm qua.

Hội nghị Trung ương VIII (khóa XI, tháng 10/2013) đề ra nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Mục tiêu nhiệm vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu của ĐHQGHN là tiếp tục xây dựng ĐHQGHN theo mô hình định hướng đại học nghiên cứu; đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao, trình độ cao theo chuẩn quốc tế; phát triển quy mô, nâng cao tầm vóc và giá trị của các kết quả đào tạo và KHCN; giữ vững và phát huy thế mạnh hàng đầu cả nước về khoa học cơ bản, đồng thời tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho đào tạo và nghiên cứu khoa học đỉnh cao, những công nghệ cao để có những kết quả đào tạo chuẩn trình độ quốc tế và những sản phẩm khoa học công nghệ mang tính đột phá, phục vụ đắc lực và hiệu quả phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng, phấn đấu để đến năm 2020 ĐHQGHN cơ bản đạt các tiêu chí của đại học nghiên cứu tiên tiến trong khu vực, một số tiêu chí đạt chuẩn đại học tiên tiến đẳng cấp quốc tế; trở thành trung tâm hàng đầu đất nước về KHCN, về đào tạo nhân tài, là đầu tàu đổi mới và trụ cột trong nền giáo dục đại học của nước nhà, tiêu biểu cho tinh hoa trí tuệ Việt Nam.

Sứ mệnh nhiệm vụ mà ĐHQGHN đề ra và phải gánh vác như vậy là hết sức nặng nề. Trong bối cảnh toàn cầu và hội nhập, xã hội hóa công tác giáo dục nhanh chóng như hiện nay, ĐHQGHN đang có nhiều vận hội và thời cơ mới, nhưng cũng có nhiều thách thức.  Hơn lúc nào hết, đã đến lúc ĐHQGHN cần đổi mới nhanh và mạnh hơn nữa trong đào tạo và nghiên cứu theo hướng chất lượng cao, trình độ cao, tạo ra những sản phẩm đột phá trong đào tạo và NCKH, tiếp cận chuẩn mực và trình độ quốc tế, mang lại những giá trị cốt lõi và thương hiệu bền vững cho ĐHQGHN.   

Đây chính là những luận cứ, cơ sở quan trọng để ĐHQGHN xây dựng một Chiến lược về đổi mới công tác đào tạo trong thời gian tới, đặc biệt là trong kế hoạch trung hạn 3 năm 2013-2015, tầm nhìn đến năm 2020.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XI (10/2012) đã nêu ra những quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là:

- Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân, là quốc sách hàng đầu. Sứ mệnh của giáo dục đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, phải được ưu tiên và đi trước.

- Mục tiêu cốt lõi của đổi mới là đào tạo năng lực, kỹ năng, phẩm chất và đặc biệt là phát triển tầm nhìn cho người học.

- Phát triển mạnh hệ thống giáo dục theo mô hình giáo dục mở có sự tham gia tích cực của người học và người sử dụng lao động.

-  Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường trong giáo dục.

- Mở rộng hợp tác quốc tế có trọng tâm, hướng tới chuẩn mực quốc tế về chất lượng đào tạo và trình độ NCKH trên nguyên tắc phát huy tối đa nội lực, giữ gìn bản sắc và độc lập dân tộc, bảo đảm định hướng XHCN.

Với ĐHQGHN, xuất phát từ sứ mệnh và truyền thống của ĐHQGHN, cũng như những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước và tiến trình hội nhập hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu như hiện nay, quán triệt chủ trương đường lối, quan điểm của Đảng, tháng 12/2012, Đảng ủy ĐHQGHN đã đề ra Chương trình hành động thực hiện nghị quyết Hội nghị 6 (khóa XI) với  mục tiêu cơ bản là Đổi mới tư duy, tập trung hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học hướng tới sản phẩm đầu ra, nâng cao vị thế của ĐHQGHN và phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Trên tinh thần chỉ đạo đó của Đảng ủy, nội dung, lộ trình và các giải pháp nhằm đổi mới mạnh mẽ và căn bản, toàn diện công tác đào tạo ở ĐHQGHN theo hướng tiếp tục đẩy mạnh và nhanh hơn nữa xây dựng và phát triển ĐHQGHN theo mô hình đại học nghiên cứu, thực hiện đào tạo chất lượng cao, trình độ cao, trên cơ sở giữ vững và phát huy giá trị cốt lõi và truyền thống thế mạnh hàng đầu về khoa học cơ bản, vai trò trụ cột trong hệ thống giáo dục Việt Nam; đồng thời xây dựng những giá trị mới, những ngành mới tiên phong, liên ngành;  gắn chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu, đảm bảo chuẩn đầu ra có chất lượng cao, góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH, nhanh chóng để đến năm 2015 có một số chương trình đào tạo đạt chuẩn khu vực và quốc tế; đến năm 2020, ĐHQGHN cơ bản đạt các tiêu chí của đại học nghiên cứu tiên tiến trong khu vực, một số tiêu chí đạt chuẩn đại học tiên tiến đẳng cấp quốc tế.

Đổi mới công tác đào tạo là công việc đòi hỏi đổi mới tổng thể, căn bản và toàn diện từ cách tiếp cận xây dựng chương trình đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra, tổ chức và quản lý đào tạo đến tiêu chí và quy trình kiểm tra đánh giá. Đổi mới đào tạo cũng không thể tách rời với nghiên cứu khoa học và tổ chức cán bộ, chính sách với giảng viên.

Chính vì vậy, song song với việc đổi mới, hiện đại hóa và xây dựng mới các chương trình đào tạo, cần quan tâm xây dựng các văn bản pháp quy (quy chế) phù hợp với tính đa dạng của công tác đào tạo, cũng như đảm bảo các điều kiện tối cần thiết cho việc đào tạo đạt chất lượng cao (đội ngũ giảng viên, CSVC, giáo trình, thư viện, điều kiện nghiên cứu khoa học, thực tập,…) và kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo, cơ sở đào tạo.

Đồng thời, đổi mới công tác đào tạo phải gắn liền với việc không ngừng bồi dưỡng và đào tạo cán bộ đầu ngành, đầu đàn kế cận; gắn với việc phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh; hội nhập theo chuẩn quốc tế; cũng như việc đổi mới quản trị đại học, xây dựng CSVC tiên tiến, hiện đại và phát huy hiệu quả mối quan hệ hữu cơ 4 nhà (Nhà nước – nhà trường – nhà khoa học và doanh nghiệp), từng bước xây dựng và phát triển ĐHQGHN đạt chuẩn của nhóm 200 các đại học tiên tiến Châu Á vào năm 2015 và vươn tới nhóm 200 các đại học tiên tiến của thế giới vào năm 2020.

II.2. Nội dung, giải pháp trọng tâm

Trên những quan điểm chỉ đạo đã được nêu trong Chương trình hành động của Đảng ủy, kế hoạch triển khai thực hiện trong công tác đào tạo có những nội dung trọng tâm như sau:

1. Sắp xếp quy hoạch các ngành, chuyên ngành đào tạo của ĐHQGHN một cách bài bản, mạch lạc từ bậc đại học đến thạc sĩ và tiến sĩ.

Trên cơ sở quy hoạch các ngành, chuyên ngành, xây dựng và đổi mới chương trình đào tạo theo các chuẩn đầu ra ở bậc đại học (đã hoàn thành tháng 11/2012) và tiếp tục hoàn thiện ở bậc sau đại học, đồng thời tiếp tục thí điểm một số chương trình theo các quy trình CDIO trong đào tạo.

Sau khi quy hoạch sẽ rà soát và lên kế hoạch kiểm định chất lượng toàn bộ các chương trình đào tạo của các ngành với những cấp độ khác nhau: Chuẩn khu vực AUN (hệ NVCL, tài năng, chất lượng cao),  chuẩn của Bộ Giáo dục và đào tạo, ĐHQGHN (hệ chuẩn), đồng thời nghiên cứu thí điểm kiểm định theo chuẩn ABET (với một số chương trình tiên tiến, NVCL).

Quy hoạch các chương trình đào tạo gắn chặt với quy hoạch cán bộ, với nghiên cứu khoa học. Vì vậy sẽ tiến hành rà soát lại đội ngũ, đánh giá hoạt động giảng dạy, nghiên cứu của đội ngũ giảng viên cho từng ngành. Trên cơ sở đó, có quy hoạch và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học đầu ngành, đầu đàn, đồng thời có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.

Quy hoạch các ngành, chuyên ngành trên cơ sở phát huy hiệu quả hợp tác trường đại học - viện nghiên cứu – doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu xã hội, vì vậy sẽ tiến hành khảo sát và đánh giá chất lượng sản phẩm đầu ra và phản hồi của cơ quan, doanh nghiệp, trên cơ sở đó điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới và đổi mới hơn nữa các chương trình đào tạo.

2. Đổi mới đào tạo theo các tiêu chí và quy trình đánh giá và nâng cao toàn diện năng lực, phẩm chất, tầm nhìn của người học (từ khâu tuyển sinh đến trong suốt quá trình học tập), trên cơ sở đó xây dựng và triển khai Đề án đổi mới phương thức tuyển sinh ở ĐHQGHN, trước mắt là tuyển sinh SĐH, áp dụng  từ 2013. Đồng thời triển khai đào tạo kỹ năng mềm trong các chương trình sau đại học và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực, phẩm chất, tầm nhìn của người học. 

3. Đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tiến sĩ chất lượng cao cho cả nước, trước hết là cho các đại học vùng (ĐH Thái Nguyên, ĐH Đà Nẵng, ĐH Vinh,…), do đó sẽ xây dựng Đề án đào tạo tiến sĩ chất lượng cao, chuẩn quốc tế của ĐHQGHN, tích hợp nguồn lực từ Đề án 911, của các đơn vị thành viên, của các đối tác (trong hệ thống 4V và các đối tác quốc tế) để thực hiện Đề án. Đồng thời xây dựng và triển khai Đề án xây dựng 2 trường phổ thông trung học chuyên của ĐHQGHN (chuyên ngoại ngữ và chuyên KHTN) đạt chuẩn quốc tế.

4. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo của các ngành, chuyên ngành đào tạo. Tập trung trọng tâm vào nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ, mở rộng hệ cử nhân Khoa học tài năng và phát triển chất lượng đào tạo THPT chuyên.

Trên cơ sở những thành công ban đầu của NVCL, xây dựng và phát triển thí điểm 01 đến 02 khoa đạt chuẩn khu vực và quốc tế; nghiên cứu và đề xuất cơ chế xã hội hóa những chương trình NVCL, thu hút lưu học sinh nước ngoài vào học tại ĐHQGHN.

Song song với nhiệm vụ chiến lược, với thế mạnh và truyền thống đầu ngành về NCCB, ĐHQGHN tập trung xây dựng “Đề án phát triển các ngành khoa học cơ bản của Việt Nam” với nòng cốt là trường ĐHKHTN và ĐH XHNV, trình các bộ ngành ưu tiên đầu tư cho đề án này với cơ chế và chế độ ưu đãi đặc biệt, với sản phẩm đào tạo và nghiên cứu đáp ứng trình độ và chuẩn mực quốc tế. Hiện nay, từ năm 2013 đã có 14 ngành KHCB của ĐHQGHN đã được hỗ trợ kinh phí (mức hỗ trợ cho sinh viên bằng mức học phí).

5. ĐHQGHN phát triển theo định hướng đại học nghiên cứu tiên tiến. Đào tạo gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học. Đào tạo thông qua nghiên cứu, và nghiên cứu ở trình độ cao để qua đó đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt, hội nhập với các chuẩn mực quốc tế, từ đó các kết quả nghiên cứu lại quay trở lại cập nhật trong các chương trình, tài liệu phục vụ đào tạo để đào tạo chất lượng cao, trình độ cao. Việc đổi mới đào tạo ở ĐHQGHN gắn kết hữu cơ với công tác bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ giảng viên, xây dựng cán bộ đầu ngành, đầu đàn kế cận thông qua xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, có uy tín quốc gia, quốc tế, từ đó xây dựng các ngành đào tạo có uy tín, thương hiệu của ĐHQGHN.

6. Đẩy mạnh kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo theo chuẩn khu vực, quốc tế. Xã hội hóa các chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế, các chương trình đã được kiểm định chất lượng AUN

7. Xây dựng triển khai Đề án tăng cường kiểm tra giám sát, thực hiện nghiêm kỷ cương và quy chế đào tạo gắn với thực hiện các điều kiện đảm bảo chất lượng cho đào tạo, gắn với việc nghiên cứu hoàn thiện các văn bản pháp quy (Quy chế đào tạo, các hướng dẫn trong công tác đào tạo) theo hướng phù hợp hơn nữa với từng đối tượng, từng ngành và từng loại hình đào tạo, gắn với quản trị đại học tiên tiến, với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo chính quy, chuyên nghiệp, có bản lĩnh, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ.

 Ban Đào tạo - ĐHQGHN
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :